Cuộc đời Lỗ_Nguyên_Công_chúa

Xuất thân

Lỗ Nguyên công chúa không rõ năm sinh và tên thật là gì. Theo sử sách ghi lại, bà là trưởng nữ của Lữ hậu - người được xác định sinh năm 241 TCN, em trai bà Hán Huệ Đế Lưu Doanh được xác định sinh khoảng năm 210 TCN. Con gái bà là Trương thị được gả làm chính thê của Hán Huệ Đế, như vậy bà hơn Hán Huệ Đế khá nhiều tuổi.

Khi Lưu Bang đảm nhiệm Đình trường, thường xuyên xin nghỉ về nhà. Có một lần, Lã Trĩ cùng hai đứa nhỏ ở đồng ruộng làm cỏ, có một ông lão đi ngang qua, muốn chút nước uống, Lã Trĩ bèn mời ông lão ăn cơm. Ông lão nhìn Lã Trĩ, bèn nói: "Bà là người đại quý khắp thiên hạ". Sau đó, Lã Trĩ mời ông lão xem tướng cho hai đứa nhỏ, ông lão nhìn Lưu Doanh mà nói:"Đức bà sở dĩ hiển quý, chính là nhờ vài đứa bé trai này!", ông lão nhìn sang con gái, cũng nói đây là quý tướng[2].

Hành trạng

Năm 205 TCN, diễn ra trận Bành Thành. Quân Hán bị Sở vương Hạng Vũ đánh tan tành.

Lưu Bang thua to, bỏ chạy, gia quyến bị thất lạc. Trên đường tìm cha, Lưu Bang gặp chị em Lưu Doanh. Thủ hạ thân tín là Hạ Hầu Anh đưa chị em Lưu Doanh lên xe ngồi cùng Lưu Bang. Quân Sở đuổi gấp phía sau, Lưu Bang sợ nhiều người ngồi thì xe nặng sẽ đi chậm không thoát được, nên đẩy cả hai con xuống. Hạ Hầu Anh đang đánh xe, vội nhảy xuống dắt hai chị em lên xe đi tiếp. Đi được một đoạn, Lưu Bang lại sợ bị quân Sở bắt, cuống cuồng đẩy con xuống lần nữa. Theo Sử ký, việc đó lặp lại ba lần. Hạ Hầu Anh nhẫn nại cả ba lần dừng ngựa, xuống kéo hai chị em lên xe và van xin Lưu Bang không bỏ con, ông mới thôi việc đó. Cuối cùng cha con Lưu Bang cũng thoát được sự truy đuổi của quân Sở.

Năm Hán thứ 7 (200 TCN), Hàn vương Tín tạo phản. Trận Bạch Đăng xảy ra, Lưu Bang bị Hung Nô vây khốn, quân sư là Lưu Kính kiến nghị dâng con gái của Lưu Bang cho Thiền vu, kỳ vọng công chúa có thể giữ gìn mối liên hôn chính trị giúp nhà Hán. Khi hay tin ấy, mẹ của Lỗ Nguyên là Lữ hậu phản đối quyết liệt, ngày đêm khóc thút thít, công chúa mới tránh khỏi cảnh gả xa này, mà Lưu Bang thay bằng một tông thất nữ khác[3].

Về sau, bà được gả cho Triệu vương Trương Ngao, sinh được con gái là Trương thị, sau được gả cho cậu mình là Hán Huệ Đế làm Hoàng hậu, theo ý muốn của Lữ Thái hậu. Triệu vương Trương Ngao, cùng cha là Trương Nhĩ theo nhà Hán từ năm 206 TCN, có thể xác định bà lấy Trương Ngao từ thời điểm này, khi chưa tới 20 tuổi, Trương thị được gả cho Hán Huệ Đế khi mới khoảng hơn 10 tuổi[4]. Năm Hán thứ 9 (198 TCN), Trương Ngao bị truất ngôi Triệu vương, giáng làm Tuyên Bình hầu (宣平侯).

Năm Hán Huệ Đế thứ 2 (193 TCN), Tề vương Lưu Phì đến triều kiến. Hán Huệ Đế cùng ăn tiệc và uống rượu với Tề vương Lưu Phì trước mặt Lữ Thái hậu, vì ông cho rằng Lưu Phì là anh nên để ngồi ghế trên theo lễ những người trong nhà. Thái hậu nổi giận, bèn sai rót hai chén thuốc độc đặt trước mặt mình, sai Lưu Phì chúc thọ. Khi Lưu Phì đứng dậy, Huệ Đế cũng đứng dậy nâng chén muốn cùng chúc thọ với Lưu Phì. Thái hậu sợ quá, thân hành đứng dậy hắt chén rượu của Huệ Đế. Thấy hành động của Thái hậu, Lưu Phì lấy làm lạ, do đó không dám uống, giả vờ say đi ra. Khi hỏi, Lưu Phì biết đó là thuốc độc nên sợ hãi, tự cho rằng không thể ra khỏi Trường An nên rất lo lắng. Quan nội sử của Lưu Phì tên là Sĩ nói:"Thái hậu chỉ có một mình Hoàng đế và Lỗ Nguyên công chúa. Nay Đại vương có hơn 70 thành, mà Công chúa chỉ có vài thành, nếu Đại vương quả thực đem một quận dâng cho Thái hậu để làm ấp tắm gội của Công chúa, thì Thái hậu thế nào cũng mừng rỡ và Đại vương cũng không lo ngại gì". Lưu Phì thấy có lý, lại sợ Lữ Thái hậu giận nên dâng cho Lỗ Nguyên công chúa thành Thành Dương quận (城陽郡; nay thuộc khu vực tỉnh Sơn Đông) để làm thực ấp, cũng tôn làm Thái hậu. Lữ Thái hậu mừng rỡ bằng lòng, bèn đặt tiệc rượu ở cung riêng của Tề vương, sau khi uống chén rượu vui vẻ, Thái hậu cho Tề vương trở về nước mình[5].

Năm Lữ Thái hậu nguyên niên (187 TCN), Lỗ Nguyên công chúa qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi, thụy làm Thái hậu[6][7]. Trong Sử ký chính nghĩa, có đề cập đến mộ của Lỗ Nguyên công chúa hiện an táng tại phía tây bắc huyện Hàm Dương.